Cách đây 52 năm, ngày 24/10/1973, Quân đoàn 1 – Binh đoàn Quyết thắng – quả đấm chủ lực binh chủng hợp thành đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập. Tiếp sau đó, các Quân đoàn 2, 3, 4 và Binh đoàn 232 ra đời. Những quả đấm thép đã được Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh sử dụng vào những thời điểm quan trọng, làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Đặc biệt, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, các quân đoàn chủ lực đã tạo nên thế áp đảo, thác đổ triều dâng, đập tan các tuyến phòng thủ của địch, thần tốc tiến về giải phóng Sài Gòn, hoàn thành trọn vẹn mục tiêu thống nhất đất nước.
Phóng viên VOV phỏng vấn Trung tướng, Tiến sĩ Đào Tuấn Anh, Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng về nội dung này.

Trung tướng, Tiến sĩ Đào Tuấn Anh – Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng.
PV: Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 đã khẳng định “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”. Đây có được coi là cơ sở cho sự ra đời các quân đoàn chủ lực, tạo nên sức mạnh áp đảo để chúng ta thực hiện quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước?
Trung tướng Đào Tuấn Anh: Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, buộc Mỹ phải rút hết quân viễn chinh và quân một số nước đồng minh về nước. Mỹ buộc phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam chúng ta.
Nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, Mỹ tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự, chỉ đạo chính quyền ngụy quân Sài Gòn, phá hoại Hiệp định, liên tiếp mở những cuộc hành quân “bình định, lấn chiếm” trên phạm vi toàn miền Nam, hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng của ta.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp hội nghị lần thứ 21 khẳng định: “Bất kể trong tình hình nào thì ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”.
Sau khi được Bộ Chính trị nhất trí thông qua, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương thành lập các quân đoàn, những quả đấm chủ lực để sẵn sàng sử dụng ở thời điểm quyết định.
Như vậy, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và chỉ thị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sau một thời gian chuẩn bị, các quân đoàn chủ lực của quân đội ta đã lần lượt thành lập. Quân đoàn 1 được thành lập ngày 24/10/1973; Quân đoàn 2 thành lập ngày 17/5/1974; Quân đoàn 3 thành lập ngày 26/3/1975; Quân đoàn 4 được thành lập ngày 20/7/1974.
PV: Với việc hình thành 5 cánh quân từ 5 hướng thần tốc tiến về Sài Gòn, ông có cho rằng, đó cũng là một sức mạnh áp đảo gây hoang mang, hoảng loạn ở quân địch?
Trung tướng Đào Tuấn Anh: Sau những thắng lợi từ 2 đòn tiến công chiến lược ở Tây Nguyên và Huế – Đà Nẵng, với khí thế và quyết tâm rất cao, ta đã nhanh chóng cơ động hầu hết lực lượng chủ lực từ miền Bắc, miền Trung vào địa bàn chiến dịch.
Ví dụ như Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3 vừa cơ động, vừa chuẩn bị chiến đấu và liên tục chiến đấu đã vào tới chiến trường đúng thời gian quy định để hiệp đồng tác chiến cùng với Quân đoàn 4 và Đoàn 232.
Tính đến ngày 25/4/1975, ta đã tập trung cho chiến dịch khoảng 270.000 quân để tham gia chiến dịch. Chiến dịch được tổ chức trên 5 hướng tiến công, đặc biệt là việc giao khu vực, mục tiêu tiến công cho từng quân đoàn đảm nhiệm.
Trên mỗi hướng tiến công, tổ chức thành các lực lượng để thực hiện đột phá tuyến phòng ngự của địch từ xa và kết hợp với thế vu hồi (đánh vòng từ phía sau) để hình thành thế bao vây, chia cắt các mục tiêu trọng điểm, kết hợp chặt chẽ giữa đột phá tiêu diệt quân địch phòng ngự với thọc sâu và lấy thọc sâu làm chính, đánh chiếm các mục tiêu then chốt, quan trọng để tạo thế tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Bộ đội Quân đoàn 3 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. – Ảnh: TTXVN.
PV: Việc điều hành các cánh quân và các lực lượng tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh với quân số lên tới vài trăm nghìn người đòi hỏi phải có trình độ chỉ huy hiệp đồng tác chiến rất cao và nghệ thuật tác chiến khoa học. Ông có thể phân tích rõ hơn về nghệ thuật tác chiến của những quả đấm chủ lực trong trận quyết chiến cuối cùng này?
Trung tướng Đào Tuấn Anh: Bàn đến vấn đề nghệ thuật tác chiến, đặc biệt là nghệ thuật tác chiến trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử khi có sự tham gia của các quân đoàn chủ lực, những quả đấm quyết định được thể hiện vào một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, ta đã nhanh chóng tạo lập được thế trận chiến dịch và hình thành được thế trận hợp vây lớn, chia cắt hiểm hóc, chia cắt cả tập đoàn phòng ngự của địch. Đây chính là vấn đề mấu chốt để tạo thế tiến công áp đảo, bịt mọi đường rút chạy của địch trên các hướng. Ví dụ như hướng tây, hướng tây nam về đồng bằng sông Cửu Long và hướng đông về thành phố Vũng Tàu, để nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của địch.
Thứ hai, ta đã kết hợp chặt chẽ việc tập trung lực lượng thọc sâu bằng các binh đoàn đột kích và được cơ giới hóa nhanh chóng thọc sâu vào các mục tiêu quan trọng, then chốt được xác định ngay từ đầu.
Thứ ba, sự hiệp đồng chặt chẽ giữa nhiều lực lượng, các quân chủng, các binh chủng, các lực lượng vũ trang trên địa bàn chiến dịch rộng lớn. Đặc biệt, ta đã dùng máy bay thu được của địch để ném bom vào sân bay Tân Sơn Nhất, tạo nên một sự phối hợp giữa trên không và mặt đất, gây bất ngờ cho địch, càng thúc đẩy nhanh tốc độ tiến công vào thời điểm quan trọng, quyết định nhất.
Tiếp theo đó là kết hợp quy mô lớn của ba mũi giáp công cả về quân sự, chính trị, binh địch vận. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, tiến công mạnh về quân sự kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng nhân dân đạt tới trình độ phát triển nghệ thuật cao.
PV: Dựa vào so sánh tương quan lực lượng, ta có ưu thế áp đảo nên mới đánh nhanh, dứt điểm từng mục tiêu để tiến thẳng vào Sài Gòn, thưa ông?
Trung tướng Đào Tuấn Anh: Đúng vậy, so sánh tương quan lực lượng và thế trận chiến dịch thì cũng có lợi cho ta. Về địch, lực lượng phòng thủ ở khu vực Sài Gòn – Gia Định có khoảng 5 sư đoàn, bố trí theo 3 tuyến: ngoại vi, ven đô và nội đôi. Tuy nhiên tinh thần chiến đấu của quân ngụy vào thời điểm đó có thể đánh giá là rã rời, mang tâm lý hoang mang cực độ.
Về ta, trong chiến dịch, ta đã tập trung khối chủ lực với một ưu thế áp đảo quân địch. Lực lượng tương đương với 5 quân đoàn. Đặc biệt là tinh thần chiến đấu của bộ đội và quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam của bộ đội ta rất cao. Các lực lượng tham gia chiến dịch cũng đã bố trí tạo lập được thế trận vững chắc, mạnh, hiểm hóc cài thế bao vây, chia cắt và cô lập hoàn toàn quân địch ở Sài Gòn với lực lượng địch ở bên ngoài.
Khi thực hành chiến dịch, các lực tiến công trên 5 hướng, tiến công các mục tiêu từ vòng ngoài, phát triển chiến đấu đánh thẳng vào các mục tiêu đã lựa chọn trong nội thành. Do vậy, lực lượng phòng ngự của địch trên các hướng buộc phải căng kéo đối phó nên không thể chi viện, hỗ trợ được với nhau.
Vì vậy, lực lượng tiến công trên các hướng đã thần tốc đánh nhanh, thắng nhanh đạt hiệu quả cao và đúng nhiệm vụ mục tiêu được giao. Đúng 11h30 ngày 30/4/1975, cờ cách mạng đã tung bay trên nóc Phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn và Chiến dịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã toàn thắng.
