50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam không chỉ mang tính chính nghĩa, vì độc lập tự do, thống nhất đất nước, mà còn vì hòa bình, vì lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Chính vì thế, nhân dân Việt Nam luôn nhận được sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của nhiều quốc gia khắp năm châu, của nhiều xu hướng chính trị-xã hội và phong trào hòa bình thế giới, trong đó có phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ.
 |
Các cựu chiến binh cùng nhân dân Mỹ xuống đường biểu tình chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Nguồn: Hiệp định Paris 1973 – Bước ngoặt tiến tới hòa bình, Nhà xuất bản Thông tấn.
|
Khi tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, ngay từ đầu, chính quyền Mỹ đã vấp phải sự phản đối của nhân dân nước này. Phong trào phản đối ban đầu, chủ yếu diễn ra trong một bộ phận xã hội, về sau mở rộng ra nhiều tầng lớp khác nhau. Từ năm 1963, bắt đầu diễn ra một số hoạt động phản chiến công khai, ôn hòa của giới trí thức Mỹ. Năm 1965, khi Mỹ mở rộng chiến tranh, đưa quân trực tiếp tham chiến ở miền nam Việt Nam, ngọn lửa phản chiến đã thật sự thổi bùng.
Hoạt động mạnh mẽ và có tiếng vang hơn cả là những cuộc biểu tình, tuần hành phản đối chiến tranh của giới sinh viên, với lực lượng nòng cốt là Hiệp hội Sinh viên Dân chủ Mỹ (SDS). Họ tổ chức các cuộc hội thảo ở các trường đại học và tuần hành, biểu tình phản chiến ở các thành phố lớn trên khắp nước Mỹ. Bắt đầu từ cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam, với hơn 3.000 người tham gia ở Trường đại học Michigan (tháng 3/1965), phong trào phản chiến lan rộng ra các địa phương, các thành phố lớn như: Washington D.C, Berkely, New York… với hàng chục nghìn người tham gia.
Ở mức độ quyết liệt hơn, sinh viên còn bao vây, đe dọa, hành hung, lên án quan chức Mỹ; tổ chức phong tỏa các căn cứ quân sự, phòng tuyển quân, hải cảng để ngăn cản việc đăng ký quân dịch và đưa binh sĩ sang Việt Nam. Trong quân đội Mỹ, cuộc phản chiến đầu tiên xảy ra ở El Paso (tháng 10/1965); binh sĩ Mỹ đã kết hợp với người dân ngoài căn cứ tiến hành biểu tình, kêu gọi “chấm dứt cuộc chiến tranh phát-xít, xâm lược của Johnson ở Việt Nam”.
Những năm 1966-1967, Mỹ càng leo thang và mở rộng chiến tranh ở Việt Nam thì phong trào phản chiến càng lan rộng mạnh mẽ. Điển hình là cuộc tuần hành khổng lồ của 125.000 người ở New York, do Ủy ban vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam tổ chức vào tháng 4/1967. Trong đó, có sự tham gia tuần hành và thuyết trình của nhiều nhân vật danh tiếng ở Mỹ, như: Martin Luther King, Harry Belafonte, James Bevel, Benjamin Spock… cùng đông đảo cựu chiến binh Mỹ từng tham gia chiến tranh Việt Nam. Họ vạch trần sự thật về cuộc chiến sai lầm của chính quyền Mỹ ở Việt Nam và kêu gọi chấm dứt ngay chiến tranh, rút quân về nước.
Sự xuống đường phản chiến đông đảo, rầm rộ của dân chúng Mỹ đã tác động ngày càng mạnh mẽ đến thái độ của người Mỹ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Thất bại liên tiếp trên chiến trường và sự căm phẫn của nhân dân Mỹ đã buộc Chính phủ Mỹ phải nhìn nhận lại một cách nghiêm túc vấn đề Việt Nam. Tháng 6/1967, thông qua tập đoàn RAND, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara chỉ đạo tổ chức nghiên cứu một cách toàn diện, xuyên suốt quan hệ Việt Nam-Mỹ từ năm 1945 đến năm 1967.
Kết quả nghiên cứu được tổng hợp trong một bộ tài liệu tuyệt mật dày 7.000 trang (sau này gọi là Hồ sơ Lầu năm góc). Nhưng, thay vì tiếp tục thúc đẩy cuộc chiến tranh Việt Nam, Hồ sơ Lầu năm góc đề xuất tìm lối thoát ra khỏi cuộc chiến tranh phi nghĩa. Như Ellsberg – người tham gia chuẩn bị bộ tài liệu này, phát biểu: Tài liệu Lầu năm góc cho người đọc thấy rõ cuộc chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến do Mỹ gây ra và đó là không chỉ là một bãi lầy, một sai lầm mà còn là một tội ác, một cuộc tàn sát tập thể[1].
Đáng chú ý, sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968, Mỹ bị tổn thất nặng nề càng làm cho nhiều người Mỹ bất đồng sâu sắc đối với Chính phủ. Và như một liều thuốc kích nổ, cuộc đấu tranh chống chiến tranh xâm lược Việt Nam của công chúng Mỹ từ đây chuyển sang một giai đoạn mạnh mẽ và quyết liệt hơn; phạm vi của phong trào phản chiến lan rộng khắp nước Mỹ. Tính riêng tháng 10/1969, dưới hình thức biểu tình, tuần hành, phong trào đã diễn ra ở 1.200 thành phố, thị trấn, thị xã tại 53 bang của nước Mỹ; quy mô đấu tranh lên đến hàng trăm nghìn và hàng triệu người. Trong đó, tháng 5/1970, khoảng bốn triệu sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học Mỹ xuống đường yêu cầu kết thúc chiến tranh Việt Nam; sinh viên nhiều trường còn dựng chiến lũy để đối phó với cảnh sát.
Không chỉ biểu tình, tuần hành, phong trào phản chiến còn xuất hiện nhiều hình thức đấu tranh mới như: Tổ chức “Ngày ngừng hoạt động” (1968); “Tạm ngưng hòa bình” (1969);… đã làm nhiều thành phố ở Mỹ bị tê liệt. Đáng chú ý, phong trào phản chiến giai đoạn này có sự tham gia tích cực của giới chức tôn giáo, viên chức chính quyền và cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam. Nhiều cựu binh Mỹ chống nạng, ngồi xe lăn hô khẩu hiệu đòi Mỹ rút quân và chấm dứt cuộc chiến vô nghĩa, phi đạo lý ở Việt Nam. Trong cuộc biểu tình với hơn 500.000 người tham gia ở thủ đô Washington (tháng 4/1971), cựu chiến binh Mỹ đã ném trả 700 huân chương được tặng vì tham chiến ở Việt Nam trước thềm Nhà Quốc hội.
Sự thay đổi nhanh chóng cán cân lực lượng của “cuộc chiến trong lòng nước Mỹ”, cùng những tổn thất nặng nề trên chiến trường Việt Nam đã buộc Chính phủ Mỹ phải tìm giải pháp thoát khỏi cuộc chiến tranh. Bắt đầu là việc phi Mỹ hóa chiến tranh và chấp nhận ngồi vào bàn thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1968. Đến năm 1972, trước thái độ phản đối chiến tranh dứt khoát của Quốc hội, Chính phủ của Tổng thống Nixon buộc phải đàm phán một cách nghiêm túc hơn, đi đến thỏa thuận với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một Dự thảo hiệp định vào ngày 20/10. Và sau thất bại trong cuộc tập kích bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 vào Hà Nội và Hải Phòng cuối tháng 12/1972, ngày 27/1/1973, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam, chấp nhận rút quân về nước.
Phong trào phản chiến đã thu hút, tập hợp được đông đảo nhân dân Mỹ tham gia. Bằng nhiều hình thức đấu tranh phong phú, phạm vi ngày càng rộng lớn, phong trào đã gây nên một “cuộc chiến tranh ở trong lòng nước Mỹ” phản ánh sự bất đồng sâu sắc của nhân dân Mỹ đối với chính sách xâm lược Việt Nam của chính quyền nước này. Họ không chỉ đấu tranh cho chính nghĩa và các giá trị nhân văn mà còn vì sự tổn thất, mất mát vô nghĩa của những người lính Mỹ. Nhà bình luận chính trị nổi tiếng Walter Lippmann của Mỹ đã phải thốt lên: “Lương tâm người Mỹ đã nổi giận… cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc chiến tranh không được lòng người nhất trong lịch sử Hoa Kỳ”.
Đánh giá về ảnh hưởng của người dân Mỹ, Henry Kissinger, nguyên Cố vấn an ninh quốc gia, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ nhớ lại: “Các thế hệ tương lai có thể khó hình dung được cơn biến động trong nước (Mỹ) mà chiến tranh Việt Nam gây ra… Chính cơ cấu của Chính phủ đã bị tan rã. Ngành hành pháp bị choáng váng. Cuối cùng con em của họ và con em bạn bè của họ đã tham gia biểu tình…”[2]. Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và cũng không thắng được cuộc chiến ngay trong lòng nước Mỹ.
[1] Deniel Ellsberg, Tài liệu mật, Hồi ký về cuộc chiến tranh Việt Nam và vụ tiết lộ hồ sơ Lầu Năm Góc, Quang Dzoan dịch, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2018, tr. 5.
[2] H. Kítxinhgiơ, Những năm tháng ở Nhà trắng, Thư viện Trung ương Quân đội dịch, 1982, tr190.
Thượng tá, TS TRẦN ANH TUẤN
Theo nhandan.vn